Loài người sinh ra trải qua một quá trình lâu dài đấu tranh với thiên nhiên để tồn tại. Thiên nhiên theo một nghĩa hẹp hơn như chúng ta thường nói ngày nay là môi trường chung quanh. không ngừng tác động, ảnh hưởng tới đời sống, tới sức khoẻ con người. Thiên nhiên có tác động tốt nhưng cũng có tác động không tốt (nhất là vào buổi bình minh của nhân loại) đối với đời sống và sức khoẻ.
Thời kỳ nguyên
thuỷ, thiên nhiên đối với con người thường là nỗi sợ hãi và sự khắc nghiệt.
Loài người buổi hồng hoang khi còn ǎn lông ở lỗ, đời sống và sức khoẻ không có
gì đảm bảo, ốm đau, bệnh tật nhiều, nguy cơ diệt vong vô cùng to lớn. Từ triệu
nǎm này sang triệu nǎm khác, con người từng bước tìm ra những biện pháp khắc phục
đạt hiệu quả hơn, ốm đau, bệnh tật giảm bớt nhưng dịch bệnh, tai hoạ vẫn còn rất
lớn.
Trải qua ốm đau, dịch bệnh, loài
người rút ra được bài học lớn lao, quý giá cho mình: tốt nhất là phòng chống dịch
bệnh, không để dịch bệnh xảy ra. Để dịch bệnh xảy ra, mới chữa thì nguy hiểm vô
cùng, hiệu quả điều trị không thể cao mà tổn thất lại rất lớn, dù bệnh có thể
chữa khỏi nhưng sức khoẻ vẫn bị tổn hại.
Chính vì thế, ở các nước phương
Tây, từ thời cổ Hy Lạp, Hippocrate – người được coi là ông tổ của nền y học
phương Tây cũng thấu hiểu điều này. Ông đã đề ra được phương pháp phòng ngừa sự lây lan cho một số bệnh. Thế kỷ XVIII,
nhà nước Italia đã ban bố những luật lệ để ngǎn ngừa sự lây truyền của bệnh
lao…
Nền y học phương Đông cũng có những nhận
định và giải pháp tương tự trong việc phòng ngừa dịch bệnh. Từ hàng ngàn nǎm
trước, người Trung Quốc đã biết chủng đậu
để phòng bệnh đậu mùa. ở nước ta cũng vậy, hàng trǎm nǎm trước, ý tưởng
“chữa bệnh khi bệnh chưa phát cũng như đào giếng để phòng khát” đã được
đề cập đến. Thế kỷ XV có cuốn “Bảo thai thần hiệu”, thế kỷ XVII có
pho sách “Bảo sinh duyên thọ toàn yếu”, thế kỷ XVIII có quyển
“Chẩn đậu chủ thư sao lục” tổng hợp những phương pháp chống bệnh đậu
mùa. Hải Thượng Lãn Ông thế kỷ XVIII đã biết nhiều bệnh do thức ǎn gây ra và đã
nói đến việc phòng độc do thức ǎn, nước uống. Trong “Vệ sinh yếu quyết diễn
ca” ông viết:
“Quả xanh nước lã độc ghê,
Ǎn vào nôn cả thường khi bất ngờ.
Lại còn độc sắn chẳng ngờ,
Cũng nên biết cách phòng ngừa mới yên…”
hoặc:
“Chớ dùng nước ruộng, nước ao
Nước hồ, nước vũng, nước nào cũng dơ
Chi bằng nước giếng, nước mưa,
Nước sông, nước suối cũng chưa an toàn”.
Đề cập đến việc phòng bệnh do các côn trùng là vật trung gian truyền bệnh, ông
viết:
Thú trùng gây hại cũng thường
Há không nghĩ đến những phương thuốc phòng?
…
Đề phòng chấy rận thế nào?
Cần nǎng tắm gội, chải đầu luôn luôn.
Rận thì nấu giặt áo quần,
Hột na trừ chấy vài lần hết ngay.
…..
Trừ rệp, bồ kết, hoa hồi
Hun nhà trừ muỗi, dùng bèo, lá xoan…”
Ý tưởng phòng bệnh mà ngày nay
chúng ta gọi là y học dự phòng và tầm quan trọng lớn hơn của nó so với chữa bệnh
trên thực tế như thế nào đã được các nền y học cả phương Đông lẫn phương Tây biết đến và chấp nhận.
Tuy nhiên, phòng bệnh không chỉ là
vấn đề y học, y tế, là vấn đề khoa học mà còn là vấn đề vǎn hoá, xã hội và chịu
ảnh hưởng lớn lao, quyết định của thể chế xã hội.
Phòng bệnh là vấn đề y học, y tế,
khoa học, vì nội dung của phòng bệnh bao gồm các vấn đề liên quan đến trình độ
vǎn hoá, vǎn minh, mức độ dân trí của các thành viên trong cộng đồng xã hội. Phòng
bệnh là vấn đề xã hội, vì việc phòng bệnh không thể chỉ do vài cá thể mà là vấn
đề của cả cộng đồng, phòng bệnh chỉ có thể nằm trong ý tưởng của người
này hoặc người khác, không thể thành đường lối, chính sách của Nhà nước, không
thể thực hiện được một cách có hiệu quả. Chỉ có một Nhà nước của dân, do dân,
vì dân, một chế độ xã hội chǎm lo đến đời sống của mọi người dân, vấn đề phòng
bệnh mới được quan tâm, đưa thành đường lối, chủ trương, mới được thực hiện một
cách triệt để và đạt hiệu quả.
Nǎm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà ra đời, tiếp thu một di sản vô cùng lạc hậu về mặt kinh tế, vǎn
hoá, xã hội do thực dân phong kiến để lại. Sự bóc lột tàn khốc của chế độ phong
kiến và hơn 80 nǎm đô hộ của thực dân Pháp đẩy nhân dân ta vào cảnh cơ cực, bần
hàn. Thực dân phong kiến bần cùng hoá nhân dân ta, không từ thủ đoạn dã man,
tàn bạo nào đàn áp, bóp nặn đồng bào ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ:
“Chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học, chúng dùng rượu cồn, thuốc phiện đầu
độc nhân dân ta, làm suy yếu giống nòi ta”. Nǎm 1945, gần hai triệu nhân
dân Việt Nam chết vì đói, tuổi thọ trung bình chỉ đến 20 tuổi, nạn hữu sinh vô
dưỡng phổ biến, tình trạng vệ sinh tồi tệ, dịch bệnh hoành hành khắp nơi, triền
miên từ nǎm này qua nǎm khác, nạn đói chưa dứt thì dịch thương hàn, dịch tả, dịch
sốt, chấy rận lại đi liền ngay sau…
Từ nǎm 1945, khi bắt đầu thành
lập nước đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh
qua đời, chúng ta đã sưu tầm được nhiều tài liệu, bài nói, bài viết… của Người
về công tác y tế, trong đó có nhiều ý kiến về vấn đề vệ sinh phòng bệnh. Cả
trong Di chúc, viết vào tháng 5 – 1968 khi nói về kế hoạch xây dựng lại đất nước
sau chiến tranh, Người vẫn không quên công tác y tế. Người cǎn dặn Đảng, Nhà nước
phải khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế, phát triển công tác vệ sinh, y tế.
Có thể nói công tác y tế, trong đó có vấn đề vệ sinh phòng bệnh đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh rất quan tâm, coi là trụ cột cho sự nghiệp chǎm sóc bảo vệ sức khoẻ
nhân dân, để phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Trong công tác y tế, vệ sinh phòng bệnh (ngày nay chúng ta gọi là y học dự
phòng hay y tế dự phòng) luôn luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến. Đó là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng và trong cuộc sống của Người.
Trong các tài liệu Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết về công tác y tế thể hiện rất rõ quan điểm của Người về y học dự
phòng. Gửi thư cho nam nữ học viên Trường cán bộ y tế Liên khu I, tháng
2-1949, Người chỉ rõ: “Người y tá chẳng những giúp chữa bệnh mà còn phải
phổ biến vệ sinh”.
Trong Thư gửi Hội nghị cán bộ y tế
toàn quốc, nǎm 1953, vấn đề vệ sinh phòng bệnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập
một cách sâu sắc, toàn diện hơn. Người viết: “Sức khoẻ của cán bộ và nhân
dân được đảm bảo thì tinh thần càng hǎng hái. Tinh thần và sức khoẻ đầy đủ thì
kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công”.
Phòng bệnh cũng cần thiết như trị bệnh.
Từ việc lớn đến những việc tưởng
như là nhỏ đều được Hồ Chí Minh gắn liền với công tác vệ sinh phòng bệnh. Thông
qua việc vận động diệt ruồi muỗi, Hồ Chí Minh đã nêu bật quan điểm của Người về
y học dự phòng: “Nếu tính lại mỗi nǎm Chính phủ và nhân dân tốn bao nhiêu
tiền thuốc men, mất bao nhiêu ngày lao động thì sẽ thấy ruồi muỗi đã gây nên một
số tổn thất khổng lồ. Do đó, phòng bệnh hơn trị bệnh. Chịu khó diệt ruồi muỗi
hơn là để ruồi muỗi gây ra ốm đau rồi phải uống thuốc.
Để làm nổi bật quan điểm của
mình về y học dự phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh có những cách thể hiện rất độc
đáo. Người so sánh: đê vỡ không chỉ mất nhà, mất của, nghèo đói mà còn có thể
chết người, muốn khắc phục tình trạng đó, trước hết mọi người phải sốt sắng,
tích cực, chủ động đắp đê hơn là để đê vỡ mới huy động người đi hàn, đi lấp. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, việc đó giống như “khi chưa ốm, ta phải uống thuốc, phòng bệnh thì
hơn là đợi ốm rồi mới uống thuốc”.
Một nội dung rất quan trọng của
quan điểm y học dự phòng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là để phòng, tránh bệnh đạt hiệu quả cao, trước hết cần phải giữ gìn vệ
sinh, vệ sinh gắn bó chặt chẽ với sức
khoẻ và số người mắc bệnh. Khẳng định: “Nếu chúng ta chú ý vệ sinh phòng bệnh
thì tránh được bệnh”. Do đó: “Mọi người phải chú ý giữ gìn vệ sinh, bảo
vệ sức khoẻ”. Có lẽ vì thấy tác dụng to lớn của công tác vệ sinh nên Hồ
Chí Minh đã gắn vệ sinh với truyền thống nổi trội, quý báu nhất của dân tộc Việt
Nam là truyền thống yêu nước. Hồ Chí Minh cho rằng thi đua là yêu nước, yêu nước
thì phải thi đua. Hồ Chí Minh còn nói: công việc hằng ngày là nền tảng của thi
đua. Vệ sinh là công việc hằng ngày của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cơ quan,
đoàn thể. Vì vậy, vệ sinh không tách rời yêu nước. Với tinh thần đó, Hồ Chí
Minh đã có những bài viết tập trung vào nội dung “vệ sinh yêu nước”.
Điều này cho thấy mọi hoạt động của người Việt Nam đều được Chủ tịch Hồ Chí
Minh gắn với thi đua yêu nước. Việc Hồ Chí Minh gắn phong trào vệ sinh với truyền
thống yêu nước, làm cho phong trào vệ sinh luôn được nuôi dưỡng và phát triển.
Điều đó có nghĩa là quan điểm y học dự phòng của Hồ Chí Minh được đặt trên những
cơ sở vững chắc và có sức sống lâu bền.
Kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, các vǎn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam đều thể hiện đậm nét quan điểm y học dự phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vǎn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII chỉ rõ: “Giảm hẳn tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết do các bệnh nhiễm khuẩn, ký sinh trùng như sốt rét, lao, bệnh ỉa chảy và viêm phổi ở trẻ em. Mở rộng phòng, chống bệnh bướu cổ… Thanh toán bệnh bại liệt, phong, uốn ván ở trẻ sơ sinh, nhanh chóng dập tắt các ổ dịch, phòng chống bệnh dại. ngǎn chặn nhiễm HIV/AIDS và tổ chức điều trị những người đã mắc”.
Gần đây có Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ký ngày 31/3/2020 Về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19
Dịch bệnh COVID-19 đã bùng phát trên phạm vi toàn cầu làm trên 72 vạn người mắc, gần 3,5 vạn người tử vong ở trên 200 quốc gia, vùng lãnh thổ và chưa có dấu hiệu dừng lại. Ở Việt Nam, số ca mắc đang tăng nhanh từng ngày và có nguy cơ cao lây nhiễm trong cộng đồng. Dự báo, dịch bệnh sẽ lây lan nhanh trên diện rộng, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người và kinh tế – xã hội của đất nước.
Thực hiện Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, với tinh thần coi trọng sức khỏe và tính mạng của con người là trên hết, để tiếp tục chủ động ngăn chặn, kiểm soát dịch bệnh, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung cao độ thực hiện các biện pháp phòng chống dịch đã đề ra, nhất là Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 27 tháng 3 năm 2020, tuân thủ các chỉ đạo của Ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19, thực hiện có hiệu quả các biện pháp cấp bách
Như vậy, các vǎn kiện, nghị quyết của Đảng đã xác định vị trí của công tác vệ sinh phòng bệnh trong toàn bộ công tác bảo vệ và chǎm sóc sức khoẻ nhân dân trên cơ sở những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề này. Các vǎn kiện đó cũng nêu rõ: phòng bệnh không chỉ là nhiệm vụ của ngành y tế mà còn là nhiệm vụ của các tổ chức Đảng và Nhà nước.
Qua đây, một lần nữa cho thấy chỉ có
nhà nước của dân, do dân, vì dân, nhà nước do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo mới có thể phát huy hết khả nǎng của nhân dân và của Nhà nước, mới làm được
nhiệm vụ phòng bệnh rộng rãi, toàn diện và có hiệu quả cho nhân dân.
Ngành y tế nước ta trên cơ sở những
tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh về y tế dự phòng, các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước về vấn đề này đã vận dụng vào công tác chǎm sóc và bảo vệ sức
khoẻ nhân dân, vào sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành y tế. Sự vận dụng này
thể hiện trong việc ngành y tế đã đề ra các chủ trương, giải pháp, các biện
pháp về tổ chức, xây dựng mạng lưới và các hoạt động vệ sinh phòng bệnh, phòng
chống dịch bệnh của ngành để luôn đạt hiệu quả nhất trong công tác phòng bệnh.
(Sưu tầm)